TÓM TẮT:
Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng do Hội đồng Lý luận Trung ương biên soạn và được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phát hành năm 2022. Cuốn sách là một công trình nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn rất sâu sắc của đồng chí Tổng Bí thư về vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công cuộc vĩ đại, khó khăn, đòi hỏi phải có sự đoàn kết, chung lòng của toàn Đảng, toàn dân tộc. Trong phạm vi bài viết này, tác giả góp bàn vào một vấn đề mà đồng chí Tổng Bí thư đã đề cập tới trong nội dung của cuốn sách, đó là, làm thế nào phát huy hơn nữa sức mạnh to lớn của dân tộc, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra.
Từ khóa: đại đoàn kết, chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cuốn sách “Lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội” của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng gồm 29 bài viết phân tích một cách toàn diện, sâu sắc những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong đó, tác giả đã luận giải những vấn đề căn bản, phức tạp, cấp thiết nhất về chủ nghĩa xã hội, với những dẫn chứng hết sức phong phú, sinh động, thuyết phục, từ thực tiễn của Việt Nam.
Để đưa đất nước trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần phải tiếp tục vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tranh thủ thời cơ và đặc biệt cần phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống đại đoàn kết của dân tộc.
Tại hội nghị toàn quốc triển khai Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đồng chí Tổng Bí thư có bài phát biểu về “Phát huy truyền thống đại đoàn kết, huy động sức mạnh của toàn dân tộc, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi toàn diện nghị quyết đại hội toàn quốc lần thứ XIII của đảng” [1], đã khái quát lại một cách logic, chặt chẽ, thuyết phục về truyền thống đoàn kết của dân tộc ta và khẳng định vai trò quan trọng, nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc “ phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự đồng thuận trong xã hội, chăm lo đời sống nhân dân; động viên nhân dân phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước; tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, mở rộng quan hệ hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước khác trên thế giới”[2]. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng khẳng định, đoàn kết là một truyền thống và bài học cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam, được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
“Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”
Theo cuốn Đại từ điển tiếng Việt, đoàn kết là sự kết thành một khối thống nhất ý chí, không mâu thuẫn, không đối chọi. Nghĩa thông thường, đoàn kết được hiểu là sự đồng tâm hợp lực của một cộng đồng người cùng nhau vượt qua khó khăn thử thách để đạt tới mục đích chung. Như vậy, đoàn kết xã hội là trạng thái tương tác liên hệ ràng buộc lẫn nhau giữa các chủ thể xã hội để xã hội tồn tại như một chỉnh thể thống nhất và vận động biến đổi. Từ góc độ triết học mácxít có thể hiểu, thuật ngữ đoàn kết xã hội dùng để chỉ sự liên kết, liên đới, liên hệ quy định và ràng buộc giữa các cá nhân tạo thành một cộng đồng xã hội và giữa các cộng đồng thành một cộng đồng xã hội lớn hơn. Vì vậy, khi phân tích đoàn kết xã hội cần phải xem xét nó thông qua hàng loạt các trục quan hệ cá nhân - gia đình - xã hội, nhà - làng - nước, cá nhân - giai cấp - dân tộc - nhân loại. Trạng thái của đoàn kết phụ thuộc vào mức độ tương tác và ràng buộc của các bộ phận, yếu tố. Điều này có quan hệ gắn chặt với hệ thống giá trị. Những giá trị bền vững, mang tính bản chất sẽ là cơ sở nền tảng cho tình đoàn kết xã hội.
Từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định đoàn kết là giá trị cốt lõi và đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, là tư tưởng xuyên suốt và nhất quán trong tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được trở thành chiến lược cách mạng của Đảng ta, là động lực to lớn tạo nên những thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta. Người đã khẳng định:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công thành công đại thành công.
Trải qua quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm, truyền thống ấy đã được phát huy, kết thành làn sóng to lớn, nhấn chìm bè lũ cướp nước và bán nước. Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng và bảo vệ đất nước theo tinh thần của cương lĩnh chính trị các văn kiện quan trọng khác mà Đại hội XIII của Đảng, đang đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta những nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang, do đó, đòi hỏi chúng ta phải có quyết tâm cao hơn nữa nỗ lực lớn hơn nữa, đoàn kết thống nhất chặt chẽ hơn nữa, cần “sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đoàn kết nhất trí, quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta” như lời đồng chí Tổng Bí thư đã khẳng định.
Để phát huy hơn nữa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để hoàn thành thắng lợi nghị quyết đại hội đề ra, đưa đất nước phát triển trong giai đoạn mới, chúng ta cần quan tâm thực hiện tốt hơn giải pháp cụ thể sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục phát huy vai trò của các chủ thể xã hội là trung tâm để thực hiện khối đại đoàn kết toàn xã hội
Trong lịch sử dân tộc, vai trò của chủ thể giữ vị thế là tập hợp hướng dẫn và điều hành hoạt động của cả cộng đồng rộng lớn đối với cộng đồng xã hội là nhân tố quyết định đến tình đoàn kết xã hội. Những chủ thể quan trọng nhất đối với Việt Nam hiện nay là Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân, trí thức, được đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trong đó, xây dựng đại đoàn kết xã hội để xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ trọng tâm nhất của Đảng Cộng sản. Đây không phải là một chủ trương xuất phát từ ý muốn chủ quan của Đảng mà nó phù hợp với nhu cầu nguyện vọng của bản thân quần chúng. Đảng ta tiếp tục kiên trì thực hiện các chủ trương và chính sách nhằm tăng cường sự tương tác và liên kết giữa các chủ thể trong xã hội tăng cường khối đoàn kết xã hội. Văn kiện Đảng đã khẳng định lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng, để thực hiện được khối đoàn kết xã hội thì vấn đề giải quyết hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích gia đình với lợi ích xã hội, lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc, là một trong những khâu vô cùng quan trọng. Trong đó, chúng ta chú ý đến xây dựng những giai cấp tầng lớp làm trụ cột trong khối đại đoàn kết xã hội. Xây dựng một xã hội, một cộng đồng văn minh trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi khi trong khi tiếp tục khẳng định vai trò của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản cần chú ý nhiều đến vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong xây dựng khối đoàn kết xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, chú trọng xây dựng và tuyên truyền hệ thống giá trị có ảnh hưởng đến sự liên kết xã hội.
Khi đề cập đến sự đoàn kết dựa trên nền tảng là sự thống nhất trong đa dạng của văn hóa truyền thống có nghĩa là chúng ta đề cập đến những giá trị sáng tạo chung, thống nhất của cả một cộng đồng rộng lớn trong suốt chiều dài lịch sử. Những giá trị chung và nổi bật trong văn hóa truyền thống của chúng ta chính là tinh thần yêu nước. Như vậy đoàn kết xã hội trên cơ sở yêu nước sẽ là một động lực để chúng ta thúc đẩy nhanh quá trình phát triển, rút ngắn thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hiện nay Việt Nam đang chủ động tham gia ra quá trình toàn cầu hóa. Quá trình toàn cầu hóa đang tác động hai chiều đến truyền thống đoàn kết của Việt Nam. Sự hội nhập sâu hơn vào lĩnh vực kinh tế và chuyển từ hội nhập kinh tế sang hội nhập về văn hóa, chính trị đối với khu vực và quốc tế đã và đang tác động hai chiều đến tính liên kết của các chủ thể trong xã hội. Xu hướng thứ nhất là hội nhập với quốc tế làm giảm tính liên kết với các chủ thể khác trong nội bộ đất nước; Xu hướng thứ hai là tăng cường liên kết trong nước để đẩy lùi yếu tố ngoại nhập, ngoại lai. Tuy nhiên, xu hướng chống ngoại nhập ngoại lai gặp phải thách thức lớn bởi sự phá vỡ những hệ thống kinh tế khép kín do toàn cầu hóa tác động. Rõ ràng, để tăng cường sức mạnh bởi sự đoàn kết dựa trên nền tảng giá trị văn hóa truyền thống những giá trị đó cần phải đi kèm với những nhân tố khác cần thiết để đảm bảo cuộc chơi là công bằng và bình đẳng. Vì vậy chủ trương kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người là chủ trương đúng đắn của Đảng. Sự phát triển của một xã hội bị quy định bởi nhiều nhân tố, có những nhân tố là cơ bản, quan trọng, có những nhân tố không cơ bản, không quan trọng; có những nhân tố chủ yếu tác động trong giai đoạn này, nhưng cũng có những nhân tố lại tác động chủ yếu trong giai đoạn khác. Trong những bước phát triển quanh co và phức tạp, dân tộc chúng ta khẳng định rằng mục tiêu chính của việc xây dựng và tìm kiếm các nguồn lực cho sự phát triển của Việt Nam cũng là vì con người và cũng do chính con người tạo nên bắt nguồn từ sức mạnh trí tuệ và năng lực của con người của xã hội loài người rõ ràng để biến những khả năng cả về trí tuệ và năng lực của toàn bộ công dân thành hiện thực sinh động trong cuộc sống thì phải có một lực lượng xã hội to lớn có tinh thần đoàn kết xã hội để tạo thành sức mạnh của cả một dân tộc một đất nước và rộng hơn là cả cộng đồng quốc tế thế trong mỗi quốc gia dân tộc bao giờ cũng có các giai cấp các tầng lớp xã hội các tộc người các tôn giáo khác nhau có tiếng nói truyền thống văn hóa những nhu cầu và lợi ích riêng khác nhau xong luôn có một lợi ích chung của toàn dân tộc có nền văn hóa chung của quốc gia dân tộc quốc gia dân tộc nào muốn phát triển cũng phải tạo ra sức mạnh đoàn kết của quốc gia dân tộc mình tùy theo những đặc điểm cụ thể mà mỗi quốc gia dân tộc có cách tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân theo cách riêng của mình với những nét rất khác nhau đa dạng và phong phú.
Tiếp tục kiên trì thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội với hệ giá trị là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh chính là cơ sở để thực hiện đoàn kết xã hội việc phấn đấu và xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu được đánh giá là vấn đề then chốt của phát triển. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội tốt đẹp là văn minh thì đó là một xã hội không thể không có những con người vươn lên làm giàu có khát vọng làm giàu chân chính. Trong chủ nghĩa xã hội, dân giàu là một điều kiện quan trọng để Nhân dân được hưởng hạnh phúc. Đảng và nhà nước khuyến khích làm giàu chính đáng và qua đó đóng góp cho xã hội. Đó chính là những bước đi nhằm hiện thực hóa sự phát triển chủ nghĩa xã hội tới từng người dân mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước muốn xây dựng trong mục tiêu phát triển của mình, phải hòa quyện với nguyện vọng phát triển của quần chúng nhân dân. Quá trình thực hiện khát vọng dân giàu, nước mạnh là cả một quá trình trong đó đoàn kết xã hội là một nhân tố vô cùng cần thiết. Khát vọng làm giàu có thể sẽ khiến cho người ta làm giàu bằng mọi cách, bất chấp tất cả để làm giàu, hệ quả là môi trường xã hội sẽ bị hủy hoại, xuống cấp và đặc biệt là sự phân hóa xã hội làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng đoàn kết xã hội. Như vậy, để có được sự đoàn kết xã hội thực sự trên cơ sở thực hiện khát vọng dân giàu, nước mạnh, thì việc thực hiện quá trình đó phải đi đôi với công bằng xã hội và thực hiện trách nhiệm xã hội. Chính công bằng xã hội và trách nhiệm xã hội làm cho các thành viên khi phấn đấu làm giàu cho bản thân mình sẽ đóng góp một phần của cải và trí tuệ và thực hiện những lợi ích cộng đồng và trách nhiệm xã hội để cho những thành phần có lợi ích và vị trí vai trò khác nhau trong xã hội đều được hưởng lợi từ quá trình này. Tuy nhiên, không phải chỉ cần thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh thì chúng ta sẽ có ngay khối đoàn kết xã hội trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Không phải mọi người dân đều có cơ hội làm giàu như nhau. Vì vậy, việc xác định xây dựng khối đại đoàn kết xã hội để xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải hợp với những giá trị truyền thống đã có từ hàng ngàn năm nay của dân tộc Việt Nam.
Thứ ba, thực hiện và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Đây không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực, nguồn lực to lớn phục vụ sự nghiệp phát triển và hội nhập, là một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.
Bài học kinh nghiệm sâu sắc đã được Đảng cộng sản Việt nam rút ra qua quá trình lãnh đạo cách mạng, đó là cần thực hiện tốt quan điểm “dân là gốc” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” trong xây dựng cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới...
Trong các văn kiện Đại hội Đảng, chủ đề đoàn kết xã hội với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội luôn được chú trọng. Bởi vì, chỉ trên cơ sở đoàn kết xã hội chúng ta mới thực hiện được nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc độc lập chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bổ sung phát triển năm 2011, Đảng ta đã xác định phương hướng cơ bản là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc tăng cường mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất. Qua việc xác định phương hướng này, chúng ta thấy cương lĩnh đã xây dựng theo đúng tinh thần của lý luận về đoàn kết xã hội. Đảng ta coi việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa như là điều kiện đầu tiên căn bản để có thể tăng cường sự liên kết giữa các giai cấp và tầng lớp mở rộng sự liên kết trong toàn xã hội. So với Văn kiện Đại hội X, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) có sự sắp xếp lại trật tự, đưa thành tố “dân chủ” lên trên thành tố “công bằng” trong đặc trưng tổng quát: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây không đơn giản là hình thức sắp xếp câu chữ trong văn bản, mà là sự bổ sung, phát triển mới có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, dân chủ được nhấn mạnh hơn, được coi như một thành tố nổi bật để thực hiện công bằng và văn minh. Điểm bổ sung này là kết quả của quá trình đổi mới tư duy chính trị của Đảng ta trong suốt 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991.
Trong các đại hội của thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, đặc biệt từ đại hội đảng lần thứ IX tới nay, đều có chủ trương thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc toàn dân để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều này chứng tỏ rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức rất rõ vai trò của đoàn kết xã hội trong việc thực hiện hóa mục tiêu của mình. Nhận thức đó được đồng chí Tổng Bí thư tiếp tục khẳng định rất rõ: chúng ta cần tiếp tục phát huy truyền thống, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Trải qua bao năm tháng, từ sức mạnh của đại đoàn kết, chúng ta đã vượt qua bao khó khăn để xây dựng và bảo vệ đất nước. Hiện nay, việc phát huy bài học đoàn kết, trong đó cốt lõi là đoàn kết trong Đảng, vẫn giữ nguyên giá trị đặc biệt, quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Như vậy, để có được sự đoàn kết, thống nhất, các giải pháp trên phải được quan tâm thực hiện một cách đồng bộ. Trong đó, cần phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc – chủ thể trực tiếp để gắn kết, tập hợp lực lượng trong các giai tầng của xã hội. Mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị phải thường xuyên, liên tục thực hiện nghiêm túc các quy tắc sinh hoạt đảng, thường xuyên phát hiện và kịp thời giải quyết các mâu thuẫn phát sinh. Có như vậy, chúng ta mới thực sự có được sự đoàn kết, thống nhất, có được sức mạnh vô địch hoàn thành những nhiệm vụ to lớn đặt ra trong quá trình bảo vệ và xây dựng đất nước ta “sánh vai với các cường quốc năm châu” như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam hằng mong mỏi.
TS Công Thị Phương Nga
Phó Trưởng khoa Lý luận cơ sở, Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu đảng toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu đảng toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t3, t7
4. Nguyễn Phú Trọng, Lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, NXB CTQG- ST, Hà Nội, 2022
5. Nguyễn Đức Bình, Chủ thuyết cách mạng và phát triển Việt Nam, NXB CTQG- ST, Hà Nội 2012.